Những bệnh nhân HIV bỏ điều trị: Vòng xoáy trầm cảm, kỳ thị và nguy cơ tử vong
Mặc dù nhận thức cộng đồng về HIV/AIDS tại Việt Nam đã có nhiều tiến bộ trong những năm gần đây, song một hiện tượng đáng lo ngại vẫn đang diễn ra âm thầm: nhiều bệnh nhân HIV, đặc biệt là nam có quan hệ đồng giới (MSM), chọn cách bỏ dở điều trị và ngắt kết nối với mọi dịch vụ hỗ trợ. Hệ quả không chỉ đe dọa trực tiếp đến tính mạng của họ mà còn gia tăng nguy cơ lây nhiễm trong cộng đồng.
Khi những vỉ thuốc ARV bị bỏ lại
Long, 23 tuổi, một chàng trai làm nghề IT ở Hà Nội, là một trong số những người trẻ từng kiên trì điều trị HIV nhưng rồi đột ngột biến mất khỏi hệ thống y tế. Sau 4 tháng đều đặn uống thuốc ARV tại một phòng khám chuyên điều trị HIV, một ngày tháng 4, Long bất ngờ trốn khỏi phòng trọ, để lại vỉ thuốc chưa dùng hết và chiếc điện thoại ghi lại những dòng nhật ký đẫm nỗi tuyệt vọng.
Trong điện thoại, Long viết: “Cảm giác như bị đóng đinh vào một thân phận không thể cứu vãn. Chỉ một cái nhăn mặt của người bán thuốc cũng đủ để mình thấy như bị đóng dấu đỏ lên trán thằng HIV.” Dòng cuối cùng là một lời nhắn lạnh lùng: “Nếu ai đó đọc được cái này, đừng tìm mình.”
Câu chuyện này được bác sĩ Nguyễn Khắc Dũng, giảng viên Khoa Tâm lý và Khoa học Giáo dục, Đại học Đại Nam, đồng thời là Phó Trưởng khoa Lâm sàng, Bệnh viện Tâm thần ban ngày Mai Hương, chia sẻ vào ngày 8/5. May mắn nhờ sự kiên trì và quan tâm của người bạn thân, Long sau đó đã đến khám và trị liệu tâm lý, được bác sĩ động viên để quay lại tiếp tục điều trị HIV.

Những trường hợp “mất tích” trong im lặng
Không chỉ riêng Long, Nam (Đồng Nai) cũng từng trải qua nỗi hoảng loạn tương tự khi nhận kết quả dương tính HIV tại bệnh viện tỉnh. Ban đầu, anh tuân thủ điều trị nghiêm túc nhưng dần trở nên trầm lặng, rồi vắng mặt ở các buổi tái khám và cuối cùng “bốc hơi” khỏi hệ thống y tế. Phải nhờ đến sự giúp đỡ của người bạn thân, đội ngũ y tế mới tiếp cận lại được Nam và đồng hành để anh quay về hành trình điều trị.
Bác sĩ Phạm Văn Phúc, Phó Trưởng khoa Hồi sức tích cực, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, cho biết ông từng chứng kiến nhiều bệnh nhân quyết định bỏ thuốc, dẫn đến hệ miễn dịch suy giảm nặng nề và bị tấn công bởi các bệnh nhiễm trùng cơ hội như viêm phổi, lao hay ung thư. Một bệnh nhân khác, anh Thành (39 tuổi), từng quyết tâm sống tốt, tuân thủ điều trị đều đặn, rồi một ngày đột ngột biến mất không để lại lời nhắn ngoài câu: “Tôi cần lý do để sống, được chấp nhận, hơn là chỉ cần thuốc.”
Những con số biết nói về áp lực tâm lý
Theo báo cáo của Bộ Y tế năm 2023, gần 60% ca nhiễm HIV mới tại Việt Nam thuộc nhóm MSM. Tuy nhiên, tỷ lệ tuân thủ điều trị ARV ở nhóm này lại thấp hơn đáng kể so với mức trung bình toàn quốc. Một nghiên cứu của Tổ chức Sức khỏe Gia đình Quốc tế (FHI 360) năm 2024 chỉ ra rằng có đến 50% người sống với HIV tại Việt Nam không duy trì điều trị liên tục, trong đó nhóm MSM chiếm tỷ lệ cao nhất.
Đáng chú ý, nghiên cứu thực hiện tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2021 khảo sát 183 nam MSM phát hiện 43 người (23,5%) mắc trầm cảm. Các triệu chứng phổ biến nhất bao gồm giảm hứng thú, khí sắc thấp, mệt mỏi, rối loạn giấc ngủ, bi quan về tương lai và giảm tự trọng. Dạng trầm cảm vừa phải là phổ biến nhất.
“So với tỷ lệ trầm cảm trong dân số chung (chỉ khoảng 3-5%), những con số này phản ánh một gánh nặng tâm thần rất lớn mà cộng đồng LGBT đang phải gánh chịu, chủ yếu do áp lực xã hội,” bác sĩ Dũng nhận định.
Những nguyên nhân khiến bệnh nhân “bốc hơi”
Các chuyên gia y tế đồng thuận rằng hiện tượng bệnh nhân nhiễm HIV “mất tích” khỏi hệ thống y tế là hệ quả tích tụ của ba yếu tố chính:
-
Kỳ thị từ xã hội và gia đình: Nhiều người bị xa lánh bởi chính người thân vì xu hướng tính dục hoặc tình trạng nhiễm HIV.
-
Tự kỳ thị và mặc cảm nội tâm: Bản thân người bệnh tự xem mình là “bẩn thỉu”, “không xứng đáng được chữa trị”, từ đó rơi vào trầm cảm, lo âu và cô lập.
-
Thiếu các dịch vụ thân thiện và bảo mật: Một số cơ sở y tế chưa đảm bảo sự riêng tư phù hợp khi tiếp nhận người bệnh, đặc biệt là đối với cộng đồng LGBT.
“Đây là vòng xoáy nguy hiểm: rối loạn tâm thần làm suy giảm động lực điều trị; mất kết nối y tế khiến tình trạng bệnh tiến triển nhanh hơn và tăng nguy cơ lây nhiễm cho cộng đồng,” bác sĩ Dũng nhấn mạnh.
Nguy cơ cao hơn với người chuyển giới
Không chỉ nhóm MSM, người chuyển giới cũng phải đối mặt với nguy cơ bị phân biệt đối xử cao hơn. Theo nghiên cứu năm 2021 tại Mỹ, gần một nửa người chuyển giới từng bị từ chối chăm sóc y tế; hơn 68% người chuyển giới da màu từng bị ngược đãi từ các nhà cung cấp dịch vụ sức khỏe. Khoảng 28% đã hoãn hoặc từ chối điều trị vì sợ bị kỳ thị.
Tại Việt Nam, nhà hoạt động Huỳnh Minh Thảo cho biết điều này góp phần khiến nhiều người thuộc cộng đồng LGBT dù nhận thức rõ rủi ro nhưng vẫn chọn “bốc hơi” khỏi hệ thống, thậm chí từ bỏ cả những ca cấp cứu cần thiết.
Hệ lụy khi bỏ điều trị HIV
Khi người bệnh ngưng sử dụng ARV, virus HIV nhanh chóng bùng phát, hệ miễn dịch suy kiệt và các bệnh nhiễm trùng cơ hội dễ dàng cướp đi mạng sống. Nếu quay lại điều trị, phác đồ thuốc trước đây có thể không còn hiệu quả, tỷ lệ thất bại cao hơn, chi phí điều trị tốn kém hơn và nguy cơ lây nhiễm cho cộng đồng tăng mạnh.

Giải pháp: Xây dựng hệ sinh thái y tế an toàn và nhân văn
Trước thực trạng này, các chuyên gia đề xuất cần xây dựng một hệ sinh thái y tế thực sự an toàn, nhân văn và thân thiện. Trong đó, dịch vụ hỗ trợ tâm lý – tâm thần nên được tích hợp vào điều trị HIV như một phần bắt buộc, không phải tùy chọn.
“Điều quan trọng nhất không nằm ở việc hệ thống y tế có bao nhiêu công cụ, mà là người bệnh có đủ cảm giác được chấp nhận, được lắng nghe và được yêu thương để lựa chọn tiếp tục sống, tiếp tục điều trị,” bác sĩ Dũng khẳng định.
Lợi ích của điều trị sớm và dự phòng lây nhiễm
Người nhiễm HIV nếu được điều trị sớm bằng thuốc ARV và tuân thủ phác đồ thì sau 6 tháng, tải lượng virus có thể giảm xuống dưới ngưỡng phát hiện (dưới 200 bản sao/ml máu). Khi đó, người bệnh sẽ không lây truyền HIV cho bạn tình qua quan hệ tình dục và nguy cơ lây từ mẹ sang con cũng giảm đáng kể. Nhờ vậy, nhiều người nhiễm HIV vẫn có thể lập gia đình, sinh con khỏe mạnh.
Bộ Y tế khuyến cáo các nhóm có nguy cơ cao như nam có quan hệ đồng giới, người chuyển giới nữ, người bán dâm, người tiêm chích ma túy… nên sử dụng dự phòng trước phơi nhiễm (PrEP) bằng cách uống mỗi ngày một viên thuốc để ngăn ngừa lây nhiễm. Dự phòng sau phơi nhiễm (PEP) nên dùng trong vòng 72 giờ sau khi phơi nhiễm (ví dụ sau khi không dùng biện pháp bảo vệ, rách hoặc tuột bao cao su…)
📰 Xem thêm các tin tức sự kiện nổi bật
🎟️ Xem thêm các thông tin giải trí
🔍 Website tương tự